Tình trạng bất ổn của thị trường dầu mỏ

image 32

Vào mùa thu năm nay, thị trường dầu thô và các sản phẩm của dầu thô đã bị sa lầy vào dòng chảy chéo cực kỳ mạnh mẽ, từ việc cắt giảm sản lượng từ các nhà sản xuất lớn cho đến sự không chắc chắn về nhu cầu toàn cầu đã tác động đến giá cả và sự biến động của thị trường. Một số yếu tố tác động đến thị trường dầu bao gồm:

  • Tồn kho xăng và dầu diesel có hàm lượng lưu huỳnh cực thấp (ULSD) đang ở mức đặc biệt thấp, ít nhất là ở Hoa Kỳ Trong khi mức tồn kho dầu thô ở mức điển hình hơn, tình hình tồn kho sản phẩm và dầu thô tổng thể cho thấy nguồn cung có khả năng bị thắt chặt đang chuẩn bị bước vào mùa đông (Hình 1).
  • Ngày 5/10, OPEC + thông báo sẽ cắt giảm sản lượng 2 triệu thùng / ngày, tương đương khoảng 2% sản lượng dầu thô toàn cầu.
  • Hoa Kỳ đã phản ứng lại việc cắt giảm sản lượng bằng cách kéo dài thời hạn rút ra khỏi Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược, vốn đã giảm gần một phần ba so với mức trước đó (Hình 2). Trong ngắn hạn, điều này đóng góp thêm 1 triệu thùng dầu thô mỗi ngày cho thị trường, nhưng sự sụt giảm không thể duy trì vô thời hạn.
  • Nền kinh tế toàn cầu đang chậm lại trong bối cảnh tốc độ thắt chặt chính sách tiền tệ nhanh nhất ở Hoa Kỳ và châu Âu trong nhiều thập kỷ nhằm đẩy lùi lạm phát gia tăng. Nhiều quốc gia khác, bao gồm Úc, Brazil, Canada và Mexico, đã chứng kiến ​​chính sách tiền tệ thắt chặt hơn nhiều.
  • Nền kinh tế Trung Quốc vẫn bị bủa vây với việc khóa COVID và lĩnh vực bất động sản đang chững lại, cả hai đều đang ăn vào nhu cầu dầu thô và các sản phẩm của nước này đang tăng nhanh một thời.
  • Chiến tranh Nga-Ukraine tiếp tục tạo ra sự không chắc chắn lan rộng trên các thị trường hàng hóa, tác động đến cả phương trình cung và cầu.
image 32
image 33

Giữa những diễn biến khác nhau này, thị trường dầu mỏ hầu như không thể hiện được xu hướng nhất quán. Trong những ngày sau thông báo của OPEC, giá WTI giao tháng 12 đã tăng từ 86 USD lên 92 USD / thùng và giữ ở mức cao kể từ đó.

Tuy nhiên, giá vẫn thấp hơn khoảng 25% so với mức đỉnh đóng cửa phiên giao dịch của họ là 120 đô la được thiết lập vào cuối tháng 6. Ngoài những biến động tương đối nhẹ về giá trong tháng 10, các đường cong tương lai của WTI, xăng và ULSD vẫn ở mức thụt lùi, cho thấy rằng các nhà giao dịch cân bằng nhận thấy nguy cơ giảm giá giao ngay lớn hơn trong hai năm tới bất chấp việc cắt giảm sản lượng của OPEC và hàng tồn kho hiện đang ở mức thấp.

Điều này cho thấy rằng các nhà giao dịch đang lo ngại về hoạt động kinh tế chậm lại trên toàn thế giới hơn là về tình trạng thiếu hụt nguồn cung (Hình 3).

image 34

Điều đó nói rằng, các nhà giao dịch quyền chọn dường như không quá tự tin về kịch bản trọng tâm của thị trường là giá có khả năng thấp hơn ở phía trước. CVOL của CME Group, một cái nhìn toàn diện về sự biến động ngụ ý trên các hợp đồng tương lai và quyền chọn, cho thấy rằng các quyền chọn trên WTI, xăng và ULSD là tương đối đắt so với hầu hết các giai đoạn lịch sử gần đây. Trong vài tháng qua, sự biến động ngụ ý về các quyền chọn đã dao động ở mức khoảng 50% hoặc cao hơn một chút đối với ba sản phẩm này, gần gấp đôi mức trước đại dịch của nó (Hình 4).

image 35

Hơn nữa, sự biến động nghiêng về quyền chọn đã bắt đầu nghiêng lên trên. Điều này cho thấy rằng trong khi các nhà giao dịch coi việc giảm giá là kịch bản có khả năng xảy ra nhất, thì có nguy cơ tăng cực cao hơn là giảm cực đoan (Hình 5).

image 36

Những rủi ro tăng đối với dầu bao gồm bất kỳ sự gián đoạn nguồn cung tiềm năng nào, bao gồm cả xung đột giữa Nga và Ukraine. Một rủi ro tăng giá khác có thể xảy ra nếu Trung Quốc bất ngờ dỡ bỏ các chính sách COVID hạn chế của mình, mặc dù các tuyên bố gần đây từ Bắc Kinh cho thấy điều này khó có thể xảy ra trong ngắn hạn.

Rủi ro suy giảm đến từ nhiều nguồn khác nhau. Một là tăng sản lượng của Hoa Kỳ. Bất chấp sự phục hồi mạnh mẽ của giá kể từ mức thấp nhất năm 2020, sản lượng của Mỹ vẫn ở dưới mức đỉnh trước đại dịch là 13,1 triệu thùng / ngày (bpd). Vào cuối năm 2020 và đầu năm 2021, sản lượng của Hoa Kỳ dao động trong khoảng 10 đến 11 triệu thùng / ngày. Kể từ đó, nó đã tăng trở lại lên 12 triệu thùng / ngày, nhưng đã cho thấy khó khăn trong việc tăng lên trên mức đó (Hình 6).

image 37

Sản lượng của Hoa Kỳ chỉ phát triển ở một khu vực: lưu vực Permi. Các khu vực nứt nẻ lớn khác, Bakken, Eagle Ford và Niobrara, đã chứng kiến ​​sản lượng trì trệ phần lớn kể từ năm 2014. Permian đã chứng kiến ​​sản lượng tăng vọt nhờ phần lớn vào các đường ống kết nối khu vực với các cơ sở lưu trữ ở Cushing, Oklahoma và đến nhà ga xuất khẩu gần Houston , Texas (Hình 7). Nếu giá dầu tiếp tục tăng và duy trì ở mức cao, nó cuối cùng có thể khuyến khích tăng trưởng tương tự ở các khu vực sản xuất khác nhưng những nỗ lực của OPEC + để ổn định thị trường đã không đẩy giá cao hơn đến mức đó.

image 38

Trong khi đó, thị trường sản phẩm vẫn còn bất ổn. Với tình trạng tồn kho cực kỳ khan hiếm và khó khăn tại các nhà máy lọc dầu, khoảng cách giữa giá dầu thô và ULSD vẫn rất rộng (Hình 8). Thị trường định giá rằng giá dầu diesel có khả năng bình thường hóa khi các vấn đề liên quan đến nhà máy lọc dầu được giải quyết.

image 39

Tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc và đồng đô la mạnh là mối quan tâm lớn Là nhà nhập khẩu dầu hàng đầu, nền kinh tế Trung Quốc đang chậm lại là một mối quan tâm lớn.

Tăng trưởng ở Trung Quốc có nhiều biến động và không mấy mạnh mẽ. Nền kinh tế tăng trưởng 4,8% trong quý đầu tiên, 0,4% trong quý thứ hai và 3,9% từ tháng 7 đến tháng 9.

Trung Quốc trước đại dịch đã có tốc độ tăng trưởng 6,5-7,0%. Một mối quan tâm lớn là chính sách Covid-Zero của đất nước đã chứng kiến ​​các thành phố lớn bị khóa, gây tổn hại cho các doanh nghiệp và hạn chế chi tiêu của người tiêu dùng.

Nhập khẩu dầu trong tháng 9 đã giảm 2% so với một năm trước do nhu cầu thấp trong bối cảnh các hạn chế của Covid. Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một thập kỷ so với đô la Mỹ, vượt qua ngưỡng tâm lý nhập khẩu 7 nhân dân tệ so với một đô la, giao dịch ở mức 7,34 nhân dân tệ so với đô la Mỹ tính đến thời điểm viết bài này. Sự tăng vọt của đồng đô la lên mức cao nhất trong 20 năm so với rổ tiền tệ bao gồm cả đồng euro có thể là một yếu tố khác làm giảm nhu cầu dầu toàn cầu.

Hầu hết các hàng hóa, bao gồm cả dầu, được định giá bằng đồng đô la và đồng đô la mạnh hơn có xu hướng làm giảm giá hàng hóa. Chi phí nhập khẩu dự kiến ​​sẽ tăng lên ở các nước nhập khẩu dầu chỉ do cơ chế tỷ giá hối đoái. Trọng tâm của sức mạnh của đồng đô la là việc Fed tăng lãi suất để chống lại lạm phát.

Fed không có dấu hiệu giảm tốc độ thắt chặt, cũng như các ngân hàng trung ương khác như Ngân hàng Trung ương châu Âu. Nếu đồng đô la sớm đạt đỉnh, điều này có thể chứng tỏ giá dầu tăng, ít nhất là ở mức chênh lệch.

Kết luận:

  • Các nhà giao dịch quyền chọn nhìn thấy một mức tăng cực đoan có nhiều khả năng hơn một mức giảm cực đoan
  • Kinh tế Trung Quốc chậm lại có thể là một lực cản đối với nhu cầu dầu mỏ
  • Lãi suất cao hơn, đồng đô la mạnh cũng có thể làm giảm nhu cầu đối với dầu
  • Tồn kho xăng của Hoa Kỳ, ULSD ở mức thấp cho thời điểm này trong năm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *