Lý thuyết sóng Elliott được phát triển bởi một kế toán chuyên nghiệp, một tác giả nổi tiếng người Mỹ – Ralph Nelson Elliott (28/07/1871 – 15/01/1948).
Lý thuyết này ra đời dựa trên quan điểm “kết quả của diễn biến tâm lý đám đông chính là sự hình thành các mô hình và xu hướng của giá cả trên thị trường”. Tâm lý và hành vi của đám đông diễn ra một cách tự nhiên nhưng thường tuân theo một chu kỳ nhất định, có lúc hưng phấn, có lúc bi quan nên kết quả của nó chính là những chuyển động của giá cũng sẽ tuân theo những chu kỳ giống như thế, lúc tăng lúc giảm. Những chu kỳ tăng giảm này đều được xác định bởi các mô hình riêng biệt, mà tác giả gọi là sóng, và được lặp đi lặp lại.
Không phải là một chỉ báo kỹ thuật hay phương pháp giao dịch nào cụ thể nhưng Lý thuyết sóng Elliott giúp trader xác định và nhận biết xu hướng thị trường một cách tường tận nhất có thể và được áp dụng rộng rãi trên nhiều loại thị trường tài chính khác nhau như chứng khoán, forex, tiền điện tử và cả hàng hóa, bất kể thị trường nào bị tác động bởi hành vi của đám đông đều có thể sử dụng Lý thuyết sóng Elliott.
Cấu trúc cơ bản của chu kỳ sóng Elliott
Một chu kỳ sóng Elliott hoàn chỉnh và cơ bản nhất bao gồm 8 sóng và có cấu trúc 2 pha, dạng 5-3, trong đó pha đầu tiên có 5 bước sóng được đánh dấu bằng số từ 1 đến 5 và là 5 bước sóng di chuyển theo xu hướng chính và pha thứ hai có 3 bước sóng điều chỉnh, di chuyển ngược xu hướng chính, được đánh dấu bằng các chữ cái A, B, C.
Cấu trúc của chu kỳ sóng Elliott trong xu hướng tăng:
Cấu trúc cơ bản của chu kỳ sóng Elliott
Một chu kỳ sóng Elliott hoàn chỉnh và cơ bản nhất bao gồm 8 sóng và có cấu trúc 2 pha, dạng 5-3, trong đó pha đầu tiên có 5 bước sóng được đánh dấu bằng số từ 1 đến 5 và là 5 bước sóng di chuyển theo xu hướng chính và pha thứ hai có 3 bước sóng điều chỉnh, di chuyển ngược xu hướng chính, được đánh dấu bằng các chữ cái A, B, C.
Cấu trúc của chu kỳ sóng Elliott trong xu hướng tăng:
Pha tăng bao gồm 5 sóng từ 1 đến 5 được gọi là mô hình sóng đẩy hay sóng động lực (impulse waves), trong đó: sóng 1, 3 và 5 là các sóng tăng và sóng 2, 4 là những sóng giảm.
Pha giảm bao gồm 3 sóng A, B, C được gọi là mô hình sóng điều chỉnh, trong đó: sóng A, C là 2 sóng giảm và một sóng B tăng.
Trong xu hướng tăng thì mô hình sóng động lực là một pha tăng giá, mô hình sóng điều chỉnh là một pha giảm giá, ngược lại, trong xu hướng giảm, mô hình sóng động lực là một pha giảm giá và mô hình sóng điều chỉnh là một pha tăng giá.
- Mô hình sóng động lực (Impulse Waves)
Theo Lý thuyết sóng Elliott thì một sóng động lực của xu hướng chính luôn bao gồm 5 sóng nhỏ, trong đó có 3 sóng đẩy (theo xu hướng chính) và 2 sóng điều chỉnh (ngược xu hướng chính). Tuy nhiên, để thỏa mãn điều kiện là một sóng động lực thì phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Sóng 2 không thể điều chỉnh về quá sâu tức là không được vượt qua điểm bắt đầu của sóng 1. Thỏa mãn điều kiện đáy sau cao hơn đáy trước trong xu hướng tăng và đỉnh sau thấp hơn đỉnh trước trong xu hướng giảm.
- Sóng 3 không được là sóng ngắn nhất trong 3 sóng 1, 3, 5.
- Sóng 4 không đi vào vùng giá của sóng 1, nghĩa là không vượt quá điểm cuối cùng của sóng 1.
- Mô hình sóng điều chỉnh (Corrective waves)
Một sóng điều chỉnh của xu hướng chính thường bao gồm 3 sóng nhỏ, trong nhiều trường hợp nó vẫn có thể có nhiều hơn 3 sóng nhưng không được nhiều hơn 5 sóng. Trong 3 sóng nhỏ, có 2 sóng điều chỉnh (ngược xu hướng chính) và 1 sóng đẩy (theo xu hướng chính).
Sóng điều chỉnh này thường có cấu trúc nhỏ hơn về cả độ lớn và thời gian hình thành so với sóng động lực nhưng đôi lúc nó lại khá phức tạp và khó xác định.
Trong bất kỳ một thị trường tài chính nào, giá cả sẽ luôn đi theo những chu kỳ tăng, giảm luân phiên nhau, nghĩa là trong một xu hướng chính đang tăng thì thị trường sẽ có những pha giảm xen kẽ và ngược lại, điều này hoàn toàn phù hợp với Lý thuyết Dow và bây giờ nó lại đúng với Lý thuyết sóng Elliott. Chính vì vậy, diễn biến của thị trường sẽ luôn rơi vào 2 giai đoạn đối nghịch: giai đoạn thị trường xác nhận xu hướng chính (thể hiện bằng các sóng động lực) và giai đoạn thị trường đang điều chỉnh xu hướng chính đó (các đợt sóng điều chỉnh).
Tính chất “sóng trong sóng” của Lý thuyết sóng Elliott
Một cấu trúc sóng Elliott hoàn chỉnh bao gồm một sóng động lực và một sóng điều chỉnh. Mỗi cấu trúc sóng Elliott (cấp 1) này tạo thành một mắt xích nhỏ trong một cấu trúc sóng Elliott lớn hơn (cấp 2), mỗi cấu trúc sóng Elliott cấp 2 lại tạo thành một mắt xích nhỏ trong một cấu trúc sóng Elliott lớn hơn nữa (cấp 3), điều này có thể lặp lại cho đến cấu trúc sóng Elliott thứ n, và cấu trúc thứ n này được lặp đi lặp lại trong một xu hướng lớn của thị trường. Phụ thuộc vào khung thời gian, độ dài khoảng thời xét đến mà giá trị của n là nhiều hay ít. Đây chính là tính chất sóng trong sóng của Lý thuyết sóng Elliott.
- Sóng Elliott lớn nhất ở hình trên là một cấu trúc sóng trong xu hướng tăng, bao gồm một sóng động lực tăng (X) gồm 5 sóng 1, 2, 3, 4, 5; và một sóng điều chỉnh giảm (Y) gồm 3 sóng A, B, C.
- Trong đó, sóng động lực X được cấu thành từ 3 sóng Elliott nhỏ hơn và cả 3 sóng Elliott này đều là 3 cấu trúc sóng của xu hướng tăng. Mỗi sóng nhỏ hơn này bao gồm 1 sóng động lực (1’, 2’, 3’, 4’, 5’) cùng hướng với X và một sóng điều chỉnh (A’, B’, C’) cùng hướng với Y.
- Sóng điều chỉnh Y cũng được cấu thành từ 2 sóng Elliott nhỏ hơn và cả 2 sóng này đều là cấu trúc sóng của xu hướng giảm. Mỗi sóng Elliott nhỏ này bao gồm 1 sóng động lực (1’, 2’, 3’, 4’, 5’) cùng hướng với Y và một sóng điều chỉnh (A’, B’, C’), cùng hướng với X.
- Và tiếp tục tương tự cho những mắt xích nhỏ hơn.
Các cấp độ sóng Elliott
Ở ví dụ trên, sau khi sóng Elliott lớn nhất đó hoàn thành sẽ tiếp tục hình thành một sóng Elliott có cấu trúc tương tự và đồng dạng với nó, và liên tiếp như vậy tạo thành một sóng Elliott có cấp độ cao hơn. Trong Lý thuyết sóng Elliott thì có 9 cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào thời gian hoàn thành mỗi cấp độ, tuy nhiên, tất cả những sự phân chia này đều mang tính tương đối. Bên cạnh đó, trong cùng một cấp độ, quy mô và thời gian hình thành của mỗi sóng cũng có thể rất khác nhau. 9 cấp độ sóng Elliott bao gồm:
- Grand Supercycle (siêu chu kỳ lớn): thời gian kéo dài đến cả thế kỷ
- Super Cycle (chu kỳ lớn): kéo dài vài thập kỷ
- Cycle (chu kỳ): kéo dài từ một năm đến vài năm
- Primary (sơ cấp): từ vài tháng đến 1 hoặc 2 năm
- Intermediate (trung cấp): từ vài tuần đến vài tháng
- Minor (nhỏ): kéo dài trong khoảng vài tuần
- Minute (khá nhỏ): kéo dài trong vài ngày
- Minuette: kéo dài trong vài giờ
- Subminuette: chỉ trong vòng vài phút
Lý thuyết sóng Elliott không phải là một kỹ thuật giao dịch nên sẽ không có quy tắc cụ thể nào trong việc xác định các điểm ra hoặc vào lệnh. Hơn nữa, việc dự đoán chính xác sóng Elliott sẽ có cấu trúc như thế nào là rất khó bởi nó có quá nhiều biến thể khác nhau. Tuy nhiên, các trader trên thế giới vẫn rất ưa chuộng sử dụng Lý thuyết sóng Elliott bằng cách kết hợp với các công cụ phân tích khác mà Fibonacci là một điển hình, để vừa xác định được hướng di chuyển tiếp theo của thị trường, vừa xác định biên độ biến động của chúng để có hướng giao dịch hiệu quả nhất.
Cộng đồng đầu tư HOANGSON.GROUP nơi trao đổi kiến thức và chiến lược đầu tư tín hiệu free .
1-Facebook: https://www.facebook.com/GeratsuVietnam
2-Nhóm tài liệu free: https://t.me/+Wlwrz5vTGvdmMzM1
3-Nhóm zalo trao đổi: https://zalo.me/g/ykjygl357
4-Truy cập https://www.geratsu.vn/ hoặc liên hệ qua: https://www.facebook.com/GeratsuVietnam để được hỗ trợ tín hiệu hàng ngày Daytrading.