Dự báo lạm phát ra sao! Bài viết 2021

fb img 1668185332869 1

——–Ai là người dự báo tốt hơn về lạm phát, các nhà kinh doanh trái phiếu hay các nhà kinh tế?

fb img 1668185332869
fb img 1668185329296

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) lạm phát đạt mức cao nhất trong nhiều thập kỷ là 5% vào tháng 5 năm 2021 (thay đổi trong 12 tháng), làm dấy lên suy đoán đáng kể về việc lạm phát sẽ còn cao trong bao lâu. Các bài đọc từ thị trường trái phiếu cho thấy lạm phát sẽ giảm xuống mức mục tiêu 2% của Cục Dự trữ Liên bang vào năm 2022, trong khi các nhà dự báo kinh tế cho rằng lạm phát tiếp tục trên mục tiêu khoảng 2,5%. [1] Thị trường trái phiếu có phần tốt hơn so với các nhà kinh tế trong việc dự đoán lạm phát trong khoảng thời gian từ một đến hai năm, cho thấy mức lạm phát trở lại 2% vào năm tới. Tuy nhiên, cả thị trường trái phiếu và các nhà kinh tế đều không có thành tích dự báo lạm phát, vì vậy không thể loại trừ lạm phát dai dẳng hơn.

Các bài viết trước đây và hiện tại cho thấy lợi tức trái phiếu dài hạn và phần bù lạm phát dài hạn thu được từ lợi tức trái phiếu không phải là những yếu tố dự báo tốt về lạm phát trong tương lai. Một bài đăng khác cho thấy các nhà dự báo kinh tế dự đoán lạm phát tốt hơn người tiêu dùng, nhưng cả hai nhóm đều không đặc biệt chính xác. Bài đăng này so sánh độ chính xác dự đoán của thị trường trái phiếu và các nhà kinh tế học trên cả tầm nhìn ngắn hạn và dài hạn. Nó phát hiện ra rằng mặc dù phần bù lạm phát ngắn hạn từ lợi suất trái phiếu có độ chính xác dự đoán tốt hơn một chút so với dự báo của các nhà kinh tế, các nhà kinh tế thực sự giỏi hơn trong việc dự báo dài hạn.

Hình 1 hiển thị lợi suất trái phiếu 10 năm, bù lạm phát trong 10 năm (dữ liệu bắt đầu từ năm 1999), kỳ vọng lạm phát trước 10 năm của các nhà dự báo kinh tế và lạm phát CPI trung bình trong 10 năm tới để phù hợp với kết quả lạm phát với giá trị dự đoán của chúng . Lạm phát trung bình kết thúc vào năm 2011 vì không có dữ liệu tương lai mười năm sau thời điểm đó. Biểu đồ được chia thành hai bảng để phóng đại những thay đổi trong dữ liệu sau năm 2000, khi các dự báo về lạm phát và lạm phát tương đối ổn định theo thời gian. Lợi tức trái phiếu, bù lạm phát và dự báo của các nhà kinh tế đều bỏ sót hầu hết các biến động về lạm phát dài hạn trong tương lai.

Hình 2 hiển thị lợi suất trái phiếu một năm, bù lạm phát trong hai năm, [2] kỳ vọng lạm phát trước một năm của các nhà dự báo kinh tế và lạm phát CPI trung bình trong năm tiếp theo. Lợi tức trái phiếu, bù lạm phát và dự báo của các nhà kinh tế đều bỏ sót hầu hết các biến động của lạm phát ngắn hạn trong tương lai, nhưng bù lạm phát có thể nắm bắt được nhiều biến động hơn một chút so với các biện pháp khác.

Bảng 1 hiển thị hồi quy của lạm phát được tính toán theo các chân trời khác nhau dựa trên bù lạm phát trễ và dự báo của các nhà kinh tế. Mỗi hồi quy cũng bao gồm lạm phát chậm lại trong bốn quý. [3] Trong mỗi cột, độ trễ có độ dài bằng độ dài của khoảng thời gian mà lạm phát được tính trung bình. Do đó, lạm phát trung bình trong 5 năm được hồi quy trên các biến có độ trễ sau 5 năm. Các hồi quy cũng bao gồm một biến giả có độ trễ để kiểm soát các điều kiện thị trường bất thường trong cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu. Hình nộm được đặt thành 1 trong Quý 4 năm 2008 và Quý 1 năm 2009 và 0 trong các giai đoạn khác. Các số liệu cho thấy mức chênh lệch lớn trong bù lạm phát trong những quý này. Bao gồm một kiểm soát đối với những giá trị ngoại lệ này cho phép ước tính lớn hơn và có ý nghĩa thống kê hơn về khả năng dự đoán của lạm phát bù cho lạm phát trong tương lai.

Cột 1 và 2 cho thấy bù lạm phát trong hai năm có hệ số dương và có ý nghĩa mạnh, trong khi dự báo một năm của các nhà kinh tế có hệ số âm và không đáng kể. Tuy nhiên, khả năng dự đoán tổng thể là khá thấp, như được chỉ ra bởi thống kê R2 điều chỉnh thấp hơn nhiều so với 1. Cột 3 và 4 cho thấy rằng các hệ số về bù lạm phát 5 năm và 10 năm có dấu hiệu sai, với hệ số 10 năm là ý nghĩa thống kê. Các hệ số về dự báo dài hạn của các nhà kinh tế học có dấu hiệu chính xác và rất có ý nghĩa. R2 điều chỉnh là 0,35 cho thấy công suất dự đoán vừa phải.

Một hạn chế của bù lạm phát là nó chỉ có từ năm 1999, thời kỳ mà lạm phát tương đối ổn định. Bảng 2 trình bày thông tin về một thước đo thô sơ hơn về kỳ vọng lạm phát của thị trường trái phiếu, lợi tức trái phiếu, quay trở lại năm 1981. Như trong bảng 1, bảng 2 hiển thị hồi quy của lạm phát được tính toán theo các chân trời khác nhau về lợi suất trái phiếu bị tụt hậu, dự báo của các nhà kinh tế học bị tụt hậu lạm phát bốn quý. Các hồi quy không bao gồm một biến giả, vì lợi tức trái phiếu không có giá trị ngoại lệ có thể so sánh với lợi tức bù lạm phát.

Cột 1 cho thấy cả lợi suất một năm và dự báo một năm của các nhà kinh tế đều không có hệ số đáng kể. Cột 2 một lần nữa không hiển thị hệ số có ý nghĩa về lợi suất hai năm và dự báo một năm, nhưng hệ số trên dự báo lớn hơn đáng kể so với hệ số trên lợi suất và gần có ý nghĩa ở mức 10 phần trăm. Mặc dù thiếu ý nghĩa thống kê, khả năng dự đoán tổng thể là vừa phải, được chỉ ra bởi thống kê R2 hiệu chỉnh là 0,43. Cột 3 một lần nữa không tìm thấy hệ số đáng kể nào về lợi suất năm năm và dự báo dài hạn của các nhà kinh tế, nhưng cả hai hệ số đều dương và hệ số trong dự báo của các nhà kinh tế lớn và gần có ý nghĩa ở mức 10 phần trăm. R2 điều chỉnh là 0,66 cho thấy công suất dự đoán vừa phải. Cột 4 hiển thị các hệ số tương tự như cột 3, nhưng hiện tại hệ số trên dự báo của các nhà kinh tế có ý nghĩa thống kê. Khả năng dự đoán khá cao, với R2 điều chỉnh là 0,86.

Khả năng dự báo rõ ràng mạnh mẽ của các dự báo của các nhà kinh tế trong bảng 2 chủ yếu xuất phát từ những năm trước năm 2000, khi cả lạm phát và dự báo về lạm phát đều có xu hướng giảm. Như được trình bày trong bảng 1, tập trung vào các năm kể từ năm 1999, khả năng dự đoán của các dự báo của các nhà kinh tế tốt nhất là vừa phải và giới hạn ở những tầm nhìn dài hơn.

Tham khảo piie dot com

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *